Friday, June 15, 2007

Chất độc da cam “NQ 36”

Chất độc da cam “NQ 36” của đảng cộng sản Việt Nam
Lý Tuấn

Ngày 10/1/2004, ngụy quyền cộng sản Hà-nội thành lập cái gọi là “Hội nạn nhân chất độc màu da cam”, lấy nó làm bằng chứng(?) cũng như dùng nó làm động lực để kiện chính phủ Mỹ, cùng với 37 công ty sản xuất hóa chất hoặc liên hệ đến “chất độc màu da cam”, mà quân đội Mỹ đã dùng để khai quang những vùng rừng rậm ở miền Nam Việt Nam, trong thời gian quân dân miền Nam phải chiến đấu chống ngụy quân cộng sản xâm lược Hồ chí Minh để bảo vệ miền Nam Việt Nam, khoảng từ 1961 đến 1971.

Về vấn đề này, người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại cũng có thắc mắc, hay đúng hơn là “câu hỏi”: “Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại có nên kiện ngụy quyền Hà-nội về “chất độc da cam”, chúng rải vào cộng đồng từ nhiều năm qua mà, ngày 26/3/2004, chính trị bộ của đảng Việt gian cộng sản công khai hóa “chất độc da cam” đó với cái tên: “NQ 36”? Kiện chúng bằng đường lối nào?”

Nếu quyết định kiện chúng, xin hãy đi vào thiết thực là kiện đòi lại những tài sản, tiền của, ruộng vườn, các cơ sở tôn giáo… và tất cả những gì mà chúng đã cướp của nhân dân khi đặt ách thống trị ở miền Nam Việt Nam sau tháng 4-1975, vì sau ba mươi năm, nó không còn hiệu lực cho việc kiện. Điều này là thực thể mà chúng không thể nào chối cãi được; nó cũng cho thế giới thấy mặt thực của “đảng cộng sản Việt Nam” không phải là “tổ chức cách mạng hay chính trị” mà là “tổ chức mafia đỏ”!

Và hiện nay, chúng đang tìm cách đẻ ra một số đạo luật để hợp pháp hóa những gì đã cướp của nhân dân miền Nam Việt Nam, mà chúng đã chia cho nhau thành tài sản của từng cá nhân trong đảng mafia đỏ. Đồng thời, nó cũng là lời nhắn nhủ cho mọi tầng lớp trong đảng Việt gian rằng: “Trung thành là quyền lợi, phục vụ là tiếp tục nhiệm vụ ăn cướp cho đảng và cho riêng bản thân, vì đảng sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để mọi thành phần đảng viên, cán bộ có thể giữ được những tài sản đã ăn cướp!” Đề phòng nếu chế độ bỗng nhiên sụp đổ, thì đạo luật này sẽ giúp bảo vệ những tài sản ăn cướp đó trên mặt pháp lý của một nước Việt Nam dân chủ pháp trị trong tương lai. Hành động của ngụy quyền Hà-nội là dấu hiệu báo rằng chúng đã nhìn thấy cái tồn sót cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam sắp đến ngày tận số, nên chúng đặt mình vào thế sẵn sàng thích ứng với mọi tình huống, và ngay từ bây giờ.

Việc kiện này là chính đáng của người Việt tị nạn cộng sản (tức nạn nhân). Nó còn có tác dụng tạo ra cơ hội tốt cho đảng cộng sản chứng minh thiện chí nếu chúng thành tâm ăn năn hối cải về những tội ác đã gieo rắc cho nhân dân Việt Nam, bằng cách trả lại tất cả những gì đã cướp của nhân dân miền Nam, thì “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hòa giải hòa hợp, đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc” của “nghị quyết 36”, mà chúng đang cố gắng phát triển vào cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại, mới có thể gây được sự chú ý. Nếu chúng không đáp ứng, thì cái “nghị quyết” đó chỉ là khẩu hiệu tuyên truyền chữ nghĩa viết trên tờ giấy lộn để lừa người tị nạn; làm mặt nạ che dấu bộ mặt xâm lăng cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại trên trận tuyến tư tưởng văn hóa mà thôi.

*****

Sau khi hiệp định Genève về Việt Nam được ký kết vào tháng 7/1954, kinh nghiệm với sự dã man, tàn độc không gớm máu của đảng Việt gian cộng sản, khoảng 1 triệu người dân miền Bắc Việt Nam đã ào ào bỏ cả gia sản, mồ mả tổ tiên… bồng bế nhau di cư vào miền Nam, dù không biết ngày mai cuộc đời sẽ đi về đâu và ra sao, nhưng họ quyết định chấp nhận chỉ với một mục đích đơn giản: miễn là chạy trốn Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản với chiến thắng Điện-biên-phủ của chúng… càng xa càng tốt!

Phải mất gần hai năm, chính quyền của cố tổng thống Diệm mới giải quyết và ổn định được những khó khăn do thực dân Pháp cố tình để lại, nhân dân miền Nam Việt Nam bắt đầu thực sự biết thế nào là đời sống hòa bình, không lo sợ đến xanh mặt khi nhìn thấy “anh công an”! Đời sống yên vui đó được thể hiện qua lời ca của một trong nhiều bản nhạc, với tên: “ánh sáng miền Nam”, lời hát đó như sau:

“Đây trời bao la ánh nắng mai chiếu đầu ghềnh lan dần tới đồng xanh.
Ta cùng chen vai đem tay góp sức gian lao cho được mùa mong cầu.
Đường cày hôm qua, hôm nay lên đầy bông lúa mới… ôi duyên dáng đồng ơi!
Đến mai sẽ là ngày, muôn hạt chín lả lơi… mình ngắm nhau cười!” (Xin lỗi, người viết bài đã quên tên ông nhạc sĩ đã sáng tác bản nhạc này.)

Nhưng rồi, đời sống hòa bình, yên vui đó đã bị hủy diệt qua trận tấn công bằng súng đạn vào Ấp-bắc, ở miền Nam Việt Nam, cuối năm 1960, của lính đánh thuê Việt gian cộng sản Hồ chí Minh, mở màn cuộc xâm lược vũ trang đẫm máu mà không một người dân nào, cả Nam lẫn Bắc, muốn thấy và muốn nó xảy ra trên đất nước thân yêu của mình. Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản đã đem “núi xương sông máu” thay thế “mình ngắm nhau cười” của nhân dân Việt Nam, trong vai trò mở rộng thuộc địa cho đế quốc đỏ Nga-xô.

Khác với hoàn cảnh của đồng bào miền Bắc đã chạy trốn cộng sản vào năm 1954, người Việt tị nạn cộng sản đã phải trả cái giá với hàng nhiều trăm ngàn người hy sinh; vượt qua những khó khăn tại những quốc gia nơi mình định cư bằng nhẫn nại, học hỏi, cần cù lao động xây dựng lại cuộc đời với nhiều nước mắt để hình thành được “cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại”, với sự cảm mến của các chính quyền và nhân dân địa phương.

Trong khi đó, đảng Việt gian cộng sản qua lỗ miệng Phạm văn Đồng và các chóp bu đã dùng những lời lẽ thô bỉ nhất để tỏ thái độ khinh bỉ, mạt sát, hạ nhục người Việt tị nạn cộng sản trên các diễn đàn quốc tế, là “bọn phản động; đàn ông thì trộm cướp, đàn bà là đĩ điếm… vì lười biếng lao động xã hội chủ nghĩa nên bỏ nước ra đi”

Nhưng mà, hàng năm với số ngoại tệ vài tỷ đô-la người tị nạn cộng sản gửi về nước vô điều kiện, không hoàn trả đã làm thay đổi tình thế. Và cuộc đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ, tự do, thịnh vượng cho dân tộc, tiếp nối ước vọng của bao thế hệ đã nằm xuống, suốt ba thập niên qua, đã khiến đảng Việt gian cộng sản phải lộ ra nhiều lúng túng, điển hình cái gọi “nghị quyết 36” phổ biến vào ngày 26/3/2004 vừa qua, là dấu hiệu một ăn, một thua với người tị nạn cộng sản của ngụy quyền Hà-nội.

Bài viết này không đề cập đến việc kiện tụng của ngụy quyền Hà-nội với chính quyền Mỹ, chỉ xin tập trung vào việc tìm kiếm câu giải đáp thích ứng cho câu hỏi ở phần mở đầu bài viết.

*****

Nghị quyết 15, khóa 2, tháng 1/1959 là cái gì?
Chủ trì hội nghị, Hồ chí Minh và tập đoàn đàn em của hắn oẹ ra nghị quyết 15, khóa 2, tháng 1-1959(1), quyết định dùng vũ trang xâm lăng miền Nam Việt Nam.

Về quân sự:

Sau đó, bước tiến hành đầu tiên là Hồ chí Minh đã ra lệnh thành lập “công trường 59”(2). “Công trường 59” là một quân đoàn thường trực mở đường “Trường-sơn” (đường mòn Hồ chí Minh), để dùng vào việc đưa binh lính, vũ khí, chiến cụ đủ loại vào Nam cho cuộc xâm lược. Tướng Việt cộng chỉ huy “công trường 59” này là Đồng Sỹ Nguyên (tên thật là Nguyễn văn Đổng). Chiến tranh Đông-dương 2 bắt đầu, mà thực chất của nó là cuộc chiến bành trướng thuộc địa cho đế quốc đỏ Nga-xô dưới sự lãnh đạo của tên Việt gian Hồ chí Minh.

Song song với sự chuẩn bị về quân sự từ miền Bắc Việt Nam, tại miền Nam Việt Nam, ngụy quân cộng sản nằm lại không tập kết ra Bắc, âm thầm chuẩn bị súng đạn đợi lệnh Hồ chí Minh.

Khi tiếng súng bùng nổ ở Ấp-bắc, cái gọi “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam” ra đời, do luật sự Nguyễn hữu Thọ, một trí thức ham danh lợi, quyền lực của miền Nam, làm chủ tịch tổ chức này, trực tiếp thực hiện về mặt quân sư cho ngụy quyền Hà-nội, dưới chiêu bài là tổ chức của Thọ do nhân dân miền Nam tự đứng lên thành lập (để mị quốc tế) để chống “Mỹ-Ngụy”(3).

Về chính trị và xã hội:

Tại các đô, tỉnh, thị và nhất là thủ đô Sài-gòn, chúng xâm nhập vào những cơ quan, cơ chế lãnh đạo của chính quyền miền Nam làm gián điệp lấy tin, móc nối để tổ chức những nhóm chống chính phủ, làm suy yếu bộ máy chính quyền, và chờ giờ hành động. Các “trí thức cơ hội, hàng hai” tụ họp nhau đồng loạt ra “tuyên ngôn, tuyên cáo” chống chính quyền dưới các chiêu bài: “hòa bình”, “chống Mỹ-Ngụy cứu nước”, hoặc “đuổi Mỹ trước, đuổi cộng sản sau” v.v… làm mất uy tín chính trị của chính quyền trên chính trường quốc tế, nghĩa là tiếp tay đắc lực cho ngụy quyền Hà-nội về trí vận cả trên hai mặt trận trong nước và hải ngoại.

Chúng xâm nhập và lũng đoạn các tổ chức tôn giáo; từ trường trung học đến đại học v.v… Sách động học sinh, sinh viên biểu tình; đình công bãi thị, gây rối loạn xã hội, khiến đời sống người dân bị ảnh hưởng sâu đậm; lại thêm một số văn nghệ sĩ như bọn Trịnh công Sơn, Miên đức Thắng… đã làm giảm tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam không nhỏ.

Trên trận tuyến thầm lặng, chúng tuyên truyền rỉ tai rằng: “Những người cộng sản cũng là người Việt Nam” (nhưng không cho ai biết chúng là cánh tay dài của đế quốc đỏ Nga-xô), phù hợp với câu nói trấn an của Huỳnh tấn Mẫm trên đài truyền hình Sài-gòn vào đêm 28/4/1975, đại khái như sau: “Xin đồng bào yên tâm, không có chi phải lo lắng và sợ hãi, những người anh em phía bên kia cũng là người Việt… Nam!”(4) (tuyệt đối không tiết lộ cho người dân miền Nam biết đến những bửu bối của “người anh em phía bên kia” như: “trại cải tạo”; các chính sách ăn cướp, như: “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “đổi tiền”; “vùng kinh tế mới” v.v…)

Một số sinh viên miền Nam du học trở cờ, nhập bọn với tả phải quốc tế, cầm hình Hồ chí Minh, cờ “mặt trận giải phóng miền Nam” (nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng chính giữa) đi biểu tình chống chiến tranh, chống “Mỹ-Ngụy”, nhưng không bao giờ chịu dùng lương tâm (dù chỉ một tí xíu bằng đầu móng tay út của người trí thức) để phán xét và tìm hiểu nguyên nhân của cuộc chiến trước khi hành động…

Ngoài những yếu tố khác, những dữ kiện nêu trên có tính cách căn bản dẫn đến ngày 30/4/1975, để Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản hoàn thành nhiệm vụ xâm lược miền Nam cho đế quốc đỏ Nga-xô.

*****

Chất độc da cam “NQ 36” là cái gì?

Nếu ai chịu khó theo dõi kỹ lưỡng mọi diễn tiến thì sẽ thấy hướng đi của đảng Việt gian cộng sản, nói theo “văn chương hàn lâm” thì chúng đang thực thi đúng theo “tư tưởng Hồ chí Minh”. Thí dụ: Dâng đất, dâng biển và các hải đảo cho Tàu cộng của ngụy quyền Hà-nội vào đầu thế kỷ 21 này là chủ trương, đường lối đã có từ khi đảng Việt gian ra đời, vì Hồ chí Minh đã thực hiện điều này từ những năm 1956 và 1958, chính thức bằng văn bản do Ung văn Khiêm và Phạm văn Đồng ký; chính sách đu dây giữa Tàu cộng và Mỹ hiện nay của ngụy quyền Hà-nội, cũng chỉ là sản phẩm “đu dây giữa Tàu cộng – Nga cộng” của Hồ khi hắn chưa tắt thở v.v…

Tuy Hồ chí Minh chết đã lâu, nhưng đối với đảng Việt gian cộng sản thì họ Hồ vẫn sống thể hiện qua cái gọi là “tư tưởng Hồ chí Minh”, được ghi rõ ràng trong hiến pháp của chúng. Nói khác hơn, chính trị bộ là tượng trưng cho cái xác ướp nằm ở Ba-đình, Hà-nội. Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi:

Nghị quyết 36, ra đời ngày 26/3/2004, do chính trị bộ trực tiếp ban hành và đảm nhận trách nhiệm việc thực hiện, thì đó chỉ là copy việc Hồ đã đẻ ra nghị quyết 15 và đích thân ra lệnh thi hành trước đây; đủ nói lên tầm quan trọng của vấn đề vì cả hai nghị quyết cùng được chỉ đạo bởi những chóp bu tối cao của đảng!
“Dù chỉ vài dẫn chứng nêu trên, nó cũng hội đủ lý do để nói rằng cái nghị quyết 36 là hiện thân nghị quyết 15 của Hồ chí Minh!”

Và, đây cũng là phát pháo lệnh cuả đầu não đảng Việt gian cộng sản mở màn cuộc chiến trực diện đối đầu người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại. Bởi vì, ngụy quyền cộng sản Hà-nội sẽ chẳng bao giờ yên tâm nếu chưa thu phục để quản trị cộng đồng bằng những đảng bộ, chi bộ của đảng nằm trong cộng đồng tị nạn, để từ đó biến cộng đồng thành một tổ chức người Việt Nam của đảng Việt gian cộng sản ở hải ngoại, đặt dưới sự kiểm soát và điều khiển trực tiếp của “mặt trận tổ cuốc”.

Muốn đạt được những mục đích đó để nắm cổ họng người tị nạn, ngụy quyền Hà-nội phải thành công trong việc thiết lập một đầu cầu, tức là “căn cứ xuất phát giống như công trường 59” ở hải ngoại. Làm sao thiết lập được căn cứ chiến lược này? Đây mới là vấn đề trọng tâm của ngụy quyền Việt gian Hà-nội trong những ngày tháng sắp tới!

Cái mấu chốt của việc thiết lập “công trường 59” ở hải ngoại sẽ tùy thuộc vào “truyền thông và giao lưu văn hóa”. Xin cô đọng nó vào trong hai vấn đề:

1- Về truyền thông

Ngụy quyền Hà-nội đã bỏ ra số tiền nửa triệu đô-la để khuynh đảo, lũng đoạn thông tin… để biến các cơ sở thông tin của người tị nạn thành chợ cá, chợ tôm làm mọi người chán nản; nhất là những người có tấm lòng với đất nước ở trong nước khi mở “net” của người hải ngoại phải có ý nghĩ là: “Nếu muốn mua tôm, cá… thì nên tìm mua nó trên các “chợ web” của người tị nạn ở hải ngoại”. Hiện tượng này đang nở rộ… chưa thấy dấu hiệu chấm dứt. Coi như địch đang lấn lướt ta ở điểm này.

Cho một số cán bộ tuyên vận văn hóa ra hải ngoại, núp dưới mọi danh nghĩa, bày ra đủ mọi trò, dạy người tị nạn chống cộng, đưa ra những đề tài vô bổ làm mất thì giờ tranh luận để quên đi, hoặc lung lạc tinh thần đấu tranh của người tị nạn cộng sản hầu làm giảm mối nguy cơ cho ngụy quyền Hà-nội. Và, cái chúng cố tình là không trực tiếp thì cũng gián tiếp tuyên dương, bốc thơm “Hồ chí Minh” để nhồi nhét cái hình tượng này vào cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản. Thí dụ: chúng viết về Hồ chí Minh rằng: “Ông là anh hùng dân tộc; ông là người yêu nước và tin tưởng vào những điều ông làm; đất nước đang tan nát, Hồ chí Minh ở đâu” và v.v…

Cho tay sai “trí thức, hoặc vài ông cựu sĩ quan quân lực miền Nam, hoặc vài tay viết của miền Nam có chút uy tín” viết bài, viết sách… tập trung vào mục tiêu mị dân bằng lời lẽ khẩn cầu làm ra vẻ “yêu đồng bào ruột thịt ở trong nước lên tới óc”, kêu gọi “hãy vì dân giàu nước mạnh, nên hợp tác (hòa giải hòa hợp) với chế độ ngụy quyền Hà-nội để giúp dân đỡ khổ…”; đánh phá những cuộc biểu tình chống “giao lưu văn hóa một chiều”; chống các quyết định “vinh danh Cờ Vàng” v.v…

Và, cái đang xảy ra đáng quan tâm nhất là tay sai của ngụy quyền Hà-nội cố phản công để đẩy lui hoặc làm giảm áp lực đấu tranh của ông Nguyễn Hữu Luyện chống tập đoàn Kevin Bowen, ở trường đại học UMass, mướn đảng viên, cán bộ văn hóa cộng sản Hà-nội viết lại “lý lịch người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại” (Tái xây dựng diện mạo và quê hương của người Việt ở nước ngoài). Cuộc phản công của những thành phần này đang gặp đối kháng mạnh mẽ và tích cực từ khắp nơi trên thế giới của người Việt tị nạn cộng sản. Xin nêu lên vài ý kiến về mục đích và sự liên hệ giữa ngụy quyền Hà-nội và tập đoàn Kevin Bowen.

“Nghị quyết 36” ban hành và phổ biến ngày 26/3/2004, quá xa so với thời gian khởi đầu của vụ WJC/UMASS. Nhưng cái “nghị quyết 36” là tổng hợp tất cả mọi dự trù, hành động để nắm và quản trị cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại, từ trước tới nay của ngụy quyền Hà-nội, mà tập đoàn Kevin Bowen đang tiếp tay, hỗ trợ, thực hiện cái kế hoạch này, được thể hiện qua đoạn văn trong mục 1, điểm 2, của nghị quyết, như sau:

“Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam…”

Trước hết, xin nêu lên hai câu hỏi là: “Lý lịch của người Việt tị nạn cộng sản là gì?” Tại sao tập đoàn Kevin Bowen lại nhúng tay vào việc viết lại lý lịch của người tị nạn?

Nói đến “lý lịch” của người Việt tị nạn cộng sản nghe thấy mơ hồ, nhưng nó sẽ không mơ hồ nếu người tị nạn hiểu rõ lý lịch thực sự của mình. Xin thưa, nó rất đơn giản, chỉ vỏn vẹn có bốn (4) chữ là “Tị nạn (cộng sản) chính trị”. Chỉ vỏn vẹn 4 chữ, nhưng nó lại là nguyên nhân của cuộc đấu tranh bất nhân nhượng và tới cùng của người Việt “tị nạn (cộng sản) chính trị”. Để ngoài việc thắng hay bại vì, ít ra, cuộc đấu tranh cũng đã đánh động được dư luận quốc tế về việc làm gian trá của hai bộ mặt: Tập đoàn Kevin Bowen và ngụy quyền Hà-nội… thống nhất trong vụ việc này (tả phái quốc tế luôn có sự liên hợp và phối hợp hành động chặt chẽ với ngụy quyền cộng sản Hà-nội), vụ việc phản bác sự thật lịch sử của Việt Nam nói chung, của người Việt “tị nạn (cộng sản) chính trị” nói riêng!

Nếu tập đoàn Kevin Bowen thành công trong vấn đề viết lại “lý lịch” của người Việt tị nạn cộng sản theo lịch trình của ngụy quyền Hà-nội, tức là tước bỏ danh nghĩa “tị nạn (cộng sản) chính trị” để khoác cái nón “tị nạn kinh tế” lên đầu người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại, thì nó sẽ mang ý nghĩa là, “chuẩn nhận việc Hồ chí Minh và đảng Việt gian cộng sản thi hành nhiệm vụ bành trướng chủ nghĩa cộng sản cho đế quốc đỏ Nga-xô, bằng chiến tranh vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, là đúng và chính nghĩa”. Nhìn xa hơn một chút, thì nó cũng là sự chấp nhận mưu đồ viết lại lịch sử Việt Nam cận đại theo quan điểm: “Lịch sử Việt Nam bắt đầu từ khi đảng (cs) ra đời”, mà Trần huy Liệu, viện trưởng viện sử học đầu tiên của tập đoàn mafia đỏ đã viết trong lịch sử đảng cộng sản Việt Nam. Từ điều này, tập đoàn Kevin Bowen với sự trợ lực về nhân sự của ngụy quyền Hà-nội, trực tiếp làm công việc mà chủ đích là bôi xóa lịch sử 21 năm hiện diện của nước Việt Nam Cộng Hòa qua “lý lịch” công dân của quốc gia này, là “người Việt tị nạn (cộng sản) chính trị!” Sự có mặt của các đảng viên, cán bộ cộng sản Hà-nội trong chương trình của tập đoàn Kevin Bowen nói lên điều này.

Có lẽ một ngày nào đó, me-xừ Kevin Bowen sẽ “mướn Osama-bin-Laden” viết lại lý lịch của người Mỹ”!
Sau những năm dài chuẩn bị và chủ quan là sẽ thành công qua sự liên hợp với tập đoàn Kevin Bowen, ngụy quyền Hà-nội cho ra đời “nghị quyết 36” và ngang nhiên coi người “tị nạn (cộng sản) chính trị” là “một bộ phận không tách rời của đảng và nhà nước mafia…” nhưng nói trớ rằng là “của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, với lời lẽ trong nghị quyết có ý nghĩa rằng “đảng và nhà nước XHCN” luôn luôn lưu tâm và ân cần lo lắng cho “tình trạng”(?) của người tị nạn ở hải ngoại (sic). Xin tìm hiểu cụm từ đó bằng cách chia nó ra làm hai vế:

a) “Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận…
b) … không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam…”

Không người Việt Nam nào là không biết nhóm từ khẩu hiệu của đảng Việt gian cộng sản: “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” và đối lại, mà chủ nghĩa xã hội bao gồm: “tổ quốc, dân tộc, nhân dân” là tiêu biểu cho “đảng Việt gian cộng sản” (thế nên mới có nhóm chữ: tổ quốc XHCN). Nhưng ở vế “a”, “đảng và nhà nước” không dám nói “Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận… của đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa” vì sợ phản ứng bất lợi, nên đã thay cái nhóm chữ lộ liễu đó vì nó làm mất ý nghĩa tuyên truyền bằng vế “b” để lừa người Việt tị nạn cộng sản… Đây là cách dùng chữ nghĩa trong phương pháp tuyên truyền của đảng Việt gian cộng sản. Biểu diễn tô hồng, bôi đen, vuốt ve, nịnh hót, khẩn cầu… là ngón nghề sở trường cuả đảng Việt gian nếu con mồi còn nằm ngoài vòng tay của chúng. Khi con mồi đã bị sập bẫy, tình trạng của nó sẽ giống như “duy trì năm thành phần kinh tế; chuẩn bị tiền bạc, lương thực và vật dụng để đi học tập cải tạo trong 10 ngày của tháng 4-1975 v.v…” Nhưng ở hải ngoại năm 2004 này, “đảng và nhà nước XHCN” không thể diễn lại trò 1975, nên giả bộ với thái độ mềm mỏng ra vẻ tình người để dụ khị những con nai vàng; dấu sau lưng cái “mặt trận tổ cuốc”, hiện diện trong đoàn công tác Nguyễn đình Bin, hờm sẳn chờ giờ thuận lợi để nhận “cộng đồng người Việt Nam (tị nạn cộng sản) ở hải ngoại” làm một thành phần… của “mặt trận”, để mọi người quên đi cụm chữ: “của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Nếu mọi điều này mà xuôi buồm thuận gió cho ngụy quyền Hà-nội, người Việt “tị nạn cộng sản” chỉ còn cách ngửa mặt lên trời than rằng: “Bây giờ ta mới biết là không có cộng đồng dân tộc Việt nam vì “đảng Việt gian cộng sản” đã là tổ quốc, dân tộc”!

Cho đến hiện tại, ngụy quyền Hà-nội vẫn hoàn toàn thất bại trong việc “tô hồng cho cuộc xâm lược miền Nam Việt Nam” vì danh nghĩa “tị nạn (cộng sản) chính trị” của người tị nạn. Danh nghĩa đó là ánh sáng soi rọi bộ mặt chế độ chính trị của đảng Việt gian cộng sản là tay sai ngoại bang, độc đảng, độc tài, phi nhân quyền, bán dân, bán nước v.v… Thế nên, ngụy quyền Hà-nội quyết tâm thay đổi tình trạng “tị nạn (cộng sản) chính trị” của người tị nạn thành: “tị nạn kinh tế” (việc xuất cảng lao động… cũng nằm trong tiến trình hòa hợp giữa hai khối người Việt ở hải ngoại, để đồng hóa tình trạng “tị nạn chính trị” của người tị nạn cộng sản” thành “di dân kinh tế”, trên con đường lâu dài); hoặc “di dân kinh tế”, mà một số nằm vùng, tay sai truyền thông… đã chơi màn thử phổi, nửa nạc nửa mỡ gọi người tị nạn cộng sản là “di dân” để tiếp tay tập đoàn thiên tả Kevin Bowen (xin đọc bài “Tản mạn 5”, web “Hon-viet.co.uk”).

Còn một điều nữa về cụm chữ “cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, hoàn toàn đúng, vì cộng đồng tị nạn cộng sản không là một bộ phận của ”tổ quốc XHCN”. Bởi nhận thức được bổn phận với “cộng đồng dân tộc Việt Nam đang quằn quại, rên xiết dưới chế độ phi nhân xã hội chủ nghĩa” nên “cộng đồng người Việt Nam tị nạn cộng sản ở nước ngoài” đã, đang và sẽ tiếp tục đấu tranh cho đến khi nào đẩy được chủ nghĩa xã hội và tập đoàn Việt gian Hà-nội ra khỏi Việt Nam. “Chơi chữ” thì phải nhận hậu quả “chữ chơi lại” là điều đương nhiên mà bọn lưu manh chữ nghĩa không thể nào tránh khỏi.

Tóm lại, về mặt truyền thông của cộng đồng tị nạn, ngụy quyền Hà-nội chủ trương nếu không hoàn toàn nắm và chủ động được, phải làm những cơ sở này của người tị nạn yếu đi, bằng cách xâm nhập hoăc dùng tiền mua chuộc để vô hiệu hóa tinh thần chống cộng, hoặc hướng dẫn vào con đường vô thưởng vô phạt bằng những truyện vu vơ, thơ… tình ủy mị; hoặc biến nó thành chợ cá Trần Quốc Toản v.v…, để dọn đường cho việc thành lập “công trường 59” ở hải ngoại, mà các tiết mục “thương nước nhớ nguồn” do các đoàn văn nghệ, ca múa trình diễn do “đảng“ gởi ra hải ngoại, là vật liệu chính của công trình xây cất.

Không can đảm nhìn nhận lý lịch của mình; không can đảm đối diện những khó khăn đó để nói lên tiếng nói chính đáng phù hợp với hoàn cảnh thực tế của mình, là hành động tạo ra môi trường cho tập đoàn thiên tả Kevin Bowin thực hiện “nghị quyết 36” cho ngụy quyền Hà-nội.

2- Về văn nghệ

Chủ đề này là cốt lõi của “chất độc da cam NQ 36”. Văn nghệ có tác dụng gây xúc động tâm tư con người, khiến dễ bị thu hút vào bẫy của ngụy quyền Hà-nội, nên người tị nạn đã phải đấu tranh chống kế hoạch này. Để tiếp sức cho tay sai ở hải ngoại, ban “tư tưởng văn hóa” Việt cộng đã mớm lý luận chống đỡ rằng, “văn nghệ không dính đến chính trị”, “những người nghệ sĩ không hát bài của cộng sản” và v.v...

Tốt, nhưng thử hỏi, nếu những người nghệ sĩ do đảng mafia gởi ra hải ngoại không hát bài cộng sản thì hát bài của ai? Còn hát bài của “ngụy” thì phải theo ý muốn của người tị nạn, thí dụ như bài hát với lời như sau:

“Mẹ chờ thư về ngồi thèm thuồng miếng trầu cay
Trẻ thơ lang thang vì cơn đói suốt bao ngày
Bao năm “giải phóng” như thế này phải không anh? (Bài “Chiều Tây Đô” của nhạc sĩ: Lam Phương)

Ngụy quyền Hà-nội sẽ đối phó bằng hình phạt nào, nếu người nghệ sĩ do đảng gởi ra hải ngoại, có đủ can đảm hát bài hát đó?

Nếu quả thực “văn nghệ không dính đến chính trị”, và để nó trở thành hiện thực, ngụy quyền Hà-nội phải giải tán tức khắc cái ban cùm kẹp về “tư tưởng văn hóa”, ngừng gởi các đoàn văn công ra hải ngoại, để tiết kiệm tiền thuế của nhân dân Việt Nam, cũng như tỏ thiện chí như đã kêu gọi trong “NQ 36”.
Nhưng làm sao ngừng được vì nó là vũ khí quan trọng bậc nhất nằm trong kế hoạch “xây cất công trường 59, hay đường mòn Hồ chí Minh giữa Hà-nội và hải ngoại”.

Nếu nói rằng, không dính đến chính trị, thì tại sao mọi vấn đề chỉ có “một chiều” từ phía ngụy quyền, trong khi tuyên bố là 99,75% nhân dân trong nước ủng hộ bằng tổng kết qua các cuộc bầu cử; ở hải ngoại thì chỉ có một số nhỏ “cực đoan” chống đối, như trong “NQ 36” đã nói: “Một số ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước…” (mục 1, điểm 1, NQ 36). Chỉ một chút ít nêu trên cũng đủ cho thấy cái bản chất “luôn lừa người” của ngụy quyền Hà-nội.

Đối với đảng Việt gian cộng sản thì: Văn học nghệ thuật là công cụ dùng để cải tạo, tẩy não, động viên quần chúng trong việc đấu tranh xây dựng chế độ vô sản chuyên chính; nhưng trong bối cảnh hiện nay, văn nghệ được dùng vào việc ru ngủ người tị nạn cộng sản ở hải ngoại, trong mưu đồ xích lại gần “đồng bào” hơn nữa để gieo hạt nhân màu da cam “ma túy bọc đường” tình cảm “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hòa giải hòa hợp v.v...” của “NQ 36”. Nếu người tị nạn lơ là kiểu sao cũng được, hoặc cho là không đáng quan tâm vì đó là “văn nghệ” thì, vô hình chung, mở lối cho sự hiện diện và tiếp cận thường trực của chúng trong cộng đồng tị nạn cộng sản.

Sẽ có ý kiến phản bác cho rằng chúng cũng đã hiện diện và tiếp cận qua các sứ quán, tổng lãnh sự v.v… Đúng, nhưng sự có mặt của chúng chỉ là vấn đề đương nhiên về ngoại giao với các quốc gia sở tại. Có ai chứng minh là chúng đã tiếp cận với cộng đồng tị nạn cộng sản? Chỉ có nằm vùng, tay sai của chúng đang quậy phá cộng đồng mà thôi. Từ tình trạng này, ta có thể khẳng định rằng chúng hoàn toàn không có liên hệ gì đến người tị nạn vì người tị nạn không phải là “di dân”, mà cái chế độ đương thời đã biến họ thành “tị nạn chính trị” bởi những chính sách đầy hận thù, diệt chủng. Nạn nhân không còn con đường nào khác hơn là đấu tranh với lằn ranh giữa ta, địch rõ ràng cho đến khi cái chế độ khát máu đó sụp đổ. Thế nên sự phản bác sẽ hoàn toàn vô nghĩa.

Cái gọi “văn nghệ, giáo dục nằm trong NQ 36” là chất độc da cam để rải vào cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản, để xóa bỏ tình trạng “tị nạn chính trị” khi người tị nạn bị ngấm thuốc… để sau cùng, trở thành người “tị nạn kinh tế” và chấp nhận “ngụy quyền Việt gian cộng sản Hà-nội” là… chính phủ của mình = mọi cuộc đấu tranh sẽ không còn nữa. Tập đoàn Kevin Bowen giữ một phần trọng trách sản xuất phấn hồng để trang điểm và vẽ lại bộ mặt làm tay sai ngoại bang, giết dân, bán dân, bán nước… của ngụy quyền Hà-nội, để cố vô hiệu hóa tinh thần đấu tranh của người tị nạn cộng sản, để họ trở thành “di dân kinh tế”, tức là công dân của nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” như trường hợp của bao người đã bị gởi đi lao động ở nước ngoài!

Nói tóm lại, ngụy quyền Hà-nội đã mở ra nhiều mặt trận là để phân hóa, lũng đoạn tinh thần, sức đấu tranh của cộng đồng tị nạn cộng sản, vì để đà tiến này của người tị nạn cộng sản tiếp tục, thì sự tồn tại của cái gọi là nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” khó an toàn.

Việc nhập cuộc vào vụ chất độc da cam mà ngụy quyền cộng sản Hà-nội đang kiện chính phủ Mỹ là không cần thiết. Vì nếu nhảy vào cuộc thì nó sẽ có ý nghĩa là quảng cáo không công cho chúng, vì chúng cần các hệ thống truyền thông ở hải ngoại quảng bá càng nhiều càng tốt, cho dù chống chúng, thì việc kiện sẽ lan rộng, đó là chủ trương của chúng trong việc này. Tốt hơn hết là nên để chuyện này cho chính quyền Mỹ lo liệu và đối ứng. Nếu cần thì với những bài viết phân tích, tham luận của ông Ts Mai Thanh Truyết và một số quí vị khác cũng quá đầy đủ và thừa khả năng đối phó.

Ngụy quyền cộng sản Hà-nội đã quyết định xâm lăng cộng đồng người Việt tị nạn qua “NQ 36”!

Ngày 25/08/2004
________________________
Chú thích:

1-2) Xin đọc “Sự tích con yêu râu xanh ở Việt Nam” tr. 143, tác giả Việt Thường.
3) Trong quyển “Mây mù thế kỷ”, me-xừ Bùi Tín đã xác định về “mặt trận” này như sau: “Cũng cần nói thêm, vị trí của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam là không có thực chất, họ chỉ là cái bình phong, là một tổ chức được đưa ra để lý giải và thuyết phục dư luận thế giới, rằng đây là một phong trào vốn có từ miền Nam. Thực ra, tất cả đều do chỉ đạo từ cơ quan lãnh đạo của đảng cộng sản ở miền Bắc”.
4) Xin đọc bài “Cánh đồng xanh màu mỡ” trong tuyển tập “Cờ Vàng-Cờ Đỏ”, của Lý Tuấn.


--------------------------------

Chất độc da cam "NQ 36" của đảng CSVN (Lý Tuấn)

No comments: